Chăm sóc trẻ sơ sinh

Chăm sóc trẻ sơ sinh – Những tồn tại cần giải quyết

– Tỉ lệ  tử  vong mẹ  liên quan đến thai sản còn cao.

 Ở nước ta tỷ lệ tử vong bà mẹ và các bệnh liên quan đến sinh đẻ tuy đã giảm nhưng vẫn còn ở mức cao, khoảng 110- 137/100000 trẻ đẻ sống. Tỷ lệ chết mẹ cũng thay đổi theo từng vùng 107/100000 ở khu vực đồng bằng sông Hồng, 200/100000 ở vùng miền núi phía Bắc, 418/100000 ở Gia Lai. Theo ước tính hàng năm có từ 22000 –28000 bà mẹ tử  vong tức là mỗi ngày có 7 bà mẹ chết do các nguyên nhân có liên quan tới thai nghén và sinh đẻ. Suy dinh dưỡng,  thiếu máu và các tai biến sản khoa là những nguyên nhân nổi trội trong tử vong mẹ. Theo Báo cáo hội thảo quốc gia về chính sách chăm sóc sản khoa thiết yếu của Bộ Y tế và Quỹ dân số Liên Hợp Quốc (UNFPA) năm 1999, 35% tổng số các trường hợp chết mẹ hoàn toàn có thể phòng ngừa được và 53% có thể phòng ngừa được nếu có được sự chăm sóc thai sản đầy đủ.

– Các dịch vụ chăm sóc mẹ ở Việt Nam chưa đáp ứng được nhu cầu sức khỏe của người dân. Khoảng 66% phụ nữ có thai nhận được chăm sóc trước đẻ nhưng chỉ 1/3 được khám thai đủ 3 lần. Số lượng phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ được tiêm vắc xin dao động từ 26% ở nông thôn đến 73% ở thành thị. Tỉ lệ thai phụ được khám thai đủ 3 lần và được nhân viên y tế có chuyên môn đỡ đẻ  còn thấp.  Các tồn tại nói trên chủ yếu ở các vùng sâu, vùng xa, vùng nông thôn. Hệ quả của nó là khoảng 80% tử vong mẹ xảy ra ở các vùng nông thôn,  miền núi.

-Hệ thống cung cấp các dịch vụ bảo vệ sức khoẻ bà mẹ tuy đã được xây dựng tương đối  hoàn chỉnh song vẫn còn nhiều nhược điểm và tồn tại. Cơ sở vật chất trang thiết bị dụng cụ còn hạn chế. Phương tiện vận chuyển các cấp cứu sản khoa còn gặp nhiều khó khăn, thiếu thuốc, thiếu thông tin giáo dục sức khỏe và các phương tiện truyền thông, yếu kém trong xử lý thông tin và thiếu các chính sách phù hợp và các hướng dẫn  chi tiết cho chăm  sóc trước, trong và sau đẻ. Kinh phí của nhà nước cung cấp cho lĩnh vực chăm sóc sức khoẻ thai sản rất hạn hẹp, phần lớn dựa vào ngân sách của địa phương. Như vậy, các địa phương có điều kiện kinh tế xã hội khó khăn lại càng không thể có được những hoạt động chăm sóc sức khoẻ cho toàn cộng đồng.                                        

 Bên cạnh đó, đội ngũ cán bộ còn thiếu nghiêm trọng, đặc biệt là y sỹ sản nhi, nữ hộ sinh, cộng thêm trình độ tay nghề chưa được cập nhật nên chưa đáp ứng tốt nhu cầu ngày một cao của các hoạt động này.

– Nhận thức về nội dung và ý nghĩa của chăm sóc sức khoẻ bà mẹ khi có thai chưa đầy đủ và chưa được quan tâm một cách chủ động. Sự thiếu hiểu biết về những kiến thức khoa học cùng với những tập tục lạc hậu trong lối sống nhất là ở những vùng dân tộc và các vùng khó khăn về địa lý, kinh tế, văn hoá xã hội đã góp phần tạo nên những tồn tại nói trên. Đặc biệt, ở nước ta nhiều nơi còn phổ biến tình trạng bà mẹ sinh con và chăm sóc trẻ tại nhà, công tác khám sau đẻ không được làm tốt nên vai trò của người mẹ trong việc phát hiện và xử trí những dấu hiệu bệnh tật ở trẻ sơ sinh càng quan trọng. Chính vì vậy, tỷ lệ bệnh và tử vong trong thời kỳ sơ sinh phụ thuộc rất nhiều vào kiến thức và thực hành của các bà mẹ.